Quảng cáo #23

Loài cá được ví là “nhân sâm dưới nước”: Nuôi ở nơi đặc biệt, cả Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ đều muốn mua

Đây là loại cá được Trung Quốc mua với số lượng lớn, chinh phục được cả thị trường khó tính như Nhật Bản.

Loài cá có sức hút đó chính là: Lươn.

Từ lâu, lươn đã được xem là “nhân sâm nước” món ăn bổ dưỡng được nhiều quốc gia ưa chuộng. Trong y học cổ truyền, thịt lươn có vị ngọt, tính ôn, giúp bổ máu, tăng khí huyết và điều hòa đường huyết. Khoa học hiện đại cũng chỉ ra, lươn chứa hàm lượng sắt, vitamin A và nhóm B dồi dào…

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), năm 2023, kim ngạch xuất khẩu lươn Việt Nam đạt 1,7 triệu USD. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2024, con số này đã tăng gần gấp đôi – đạt 2,98 triệu USD, tương đương 670 tấn. Trong đó, Trung Quốc tiêu thụ khoảng 300 tấn, Nhật Bản 50 tấn, Mỹ 38 tấn và Hàn Quốc 33 tấn. Dự báo năm 2025 xuất khẩu lươn tại Việt Nam tiếp tục tăng do có nhiều mô hình nuôi mới.

Loài cá được ví là “nhân sâm dưới nước”: Nuôi ở nơi đặc biệt, cả Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ đều muốn mua- Ảnh 1.

Mô hình nuôi lươn không bùn.

Nuôi lươn không cần bùn

Nếu trước đây, người nuôi thường dùng ao đất có bùn đáy, dễ phát sinh chất thải và dịch bệnh, thì nay mô hình nuôi lươn không bùn bằng bể composite (nuôi lươn không bùn) đang mở ra hướng đi xanh và bền vững. Không cần diện tích lớn, mô hình này giúp người dân kiểm soát toàn diện các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, chất lượng nước, đồng thời giảm ô nhiễm nguồn nước xung quanh.

Việc không sử dụng bùn đáy giúp hạn chế tích tụ chất thải, rút ngắn thời gian nuôi, nâng cao tỷ lệ sống và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Lươn nuôi theo phương pháp này có mẫu mã đồng đều, ít bệnh, chất lượng thịt thơm ngon, được thị trường nhập khẩu đánh giá cao.

Hiện giá bán lẻ trong nước dao động từ 3,3 đến 8,6 USD/kg, trong đó lươn nuôi công nghệ không bùn có giá trị cao hơn hẳn.

Tại thôn Hoành Sơn (Bắc Ninh), người dân chỉ với khoảng sân hơn 10m² đã xây bốn bể xi măng rộng 2m²/bể. Mỗi vụ, thu khoảng 1,5–2 tấn lươn, thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Còn tại Cần Thơ, Tổ hợp tác nuôi lươn Chiến Thắng (xã Tân Hòa) được thành lập từ năm 2023 với 11 thành viên, mỗi hộ nuôi từ 20.000 – 80.000 con.

Chia sẻ trên báo Báo Lao động, ông Trần Trung Tri, Tổ trưởng Tổ hợp tác nuôi lươn Chiến Thắng (Cần Thơ), mô hình không bùn giúp quản lý dễ hơn, tiết kiệm chi phí, giảm ô nhiễm và cho sản phẩm sạch.

Người dân áp dụng nuôi xoay vòng theo lứa, bình quân mỗi tháng thu 10.000 con, tương đương 6 vụ/năm. Nhờ mô hình này, lợi nhuận người nông dân đạt hơn 400 triệu đồng/năm, góp phần tạo sinh kế bền vững tại địa phương.

Hướng tới chuỗi giá trị xanh bền vững

Các chuyên gia cho rằng, để ngành lươn Việt Nam phát triển thành sản phẩm chủ lực, cần xây dựng chuỗi liên kết “nuôi – chế biến – xuất khẩu” theo chuẩn quốc tế. Mô hình nuôi không bùn đóng vai trò then chốt, giúp đồng bộ hóa quy trình từ con giống, thức ăn, chăm sóc, thu hoạch đến chế biến.

Cùng với đó, việc thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử là bắt buộc. Khi mỗi con lươn đều có mã QR, ghi nhận toàn bộ hành trình từ trại giống đến xuất khẩu, người tiêu dùng trong và ngoài nước sẽ có thêm niềm tin vào sản phẩm Việt Nam.

Để đạt được điều đó, các chương trình hợp tác công – tư với sự tham gia của các tổ chức phát triển như: IDH, GIZ và các địa phương trọng điểm: An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu (cũ) đang được khuyến nghị triển khai. Việc đào tạo nông dân, hỗ trợ chứng nhận quốc tế, đầu tư con giống nhân tạo chất lượng cao sẽ giúp ngành lươn Việt Nam chủ động nguồn cung và mở rộng thị trường.

Song song với các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc, doanh nghiệp cần tìm cơ hội ở Trung Đông, châu Phi hoặc các khu vực có cộng đồng người Á Đông – nơi lươn là món ăn truyền thống.