Quảng cáo #23

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?

Tại Tọa đàm “Cơ hội vươn mình từ chuyển đổi số: Câu chuyện tiên phong từ ứng dụng VNeID và ngành Tài chính Ngân hàng”, các khách mời chia sẻ góc nhìn: Việt Nam có thể trở thành một quốc gia số thịnh vượng?

Những ngày qua, câu chuyện được chia sẻ sôi nổi nhất là món quà 100.000 đồng mà Chính phủ gửi tặng mỗi người dân nhân dịp Quốc khánh 2/9 qua ứng dụng VneID.

Đây là một “cú hích” kéo hàng chục triệu người dân bước chân vào hệ sinh thái số quốc gia, nơi định danh của mỗi người được xác thực và mọi giao dịch có thể trở nên minh bạch, nhanh chóng.

Đó cũng là một bước đi nhỏ trong một hành trình rất lớn: hành trình xây dựng một E-Vietnam, một quốc gia số thịnh vượng.

Nhìn sang một quốc gia nhỏ bé ở châu Âu tên là Estonia. Họ chỉ có 1,3 triệu dân. Năm 2000, GDP đầu người của họ chỉ là 3.000 USD. Nhưng nhờ một chiến lược số hóa quyết liệt mang tên E-Estonia, con số đó đã vọt lên 30.100 USD vào năm 2023.

Câu chuyện của Estonia là một minh chứng cho thấy sức mạnh vươn mình từ chuyển đổi số. Nó đặt ra một câu hỏi lớn cho chúng ta: Việt Nam có thể làm được như vậy không? Chúng ta có những nhân tố nào trong tay để biến khát vọng E-Vietnam thành hiện thực?

Để trả lời một phần những câu hỏi đó, ngày 9/9, Kênh thông tin tài chính kinh tế CafeF (trực thuộc Công ty Cổ phần VCCORP) tổ chức Tọa đàm “Cơ hội vươn mình từ chuyển đổi số: Câu chuyện tiên phong từ ứng dụng VNeID và ngành Tài chính Ngân hàng”.

Góp mặt tại Tọa đàm là những khách mời đặc biệt:

- TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, một thành viên của Tổ tư vấn Chính sách của Chính phủ

- Ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank

- Ông Hoàng Trung Hải, Phó Tổng Giám đốc, Tư vấn, Dịch vụ Tài chính Ngân hàng, Công ty Cổ phần Tư vấn EY Việt Nam.

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 1.

Xin được hỏi PGS. TS Trần Đình Thiên là chúng ta có thể thực hiện thành công được E-Vietnam tương tự như Estonia không và những nhân tố triển vọng nào đang cho thấy điều đó?

PGS. TS Trần Đình Thiên: Chúng ta đang thảo luận chủ đề về xã hội thông minh, kỷ nguyên số. Chúng ta rất cần làm rõ điều này để những người bình thường, không phải các nhà chiến lược, cũng hiểu được. Mục tiêu của chúng ta là vươn mình, sánh vai với thế giới.

Câu hỏi có nhắc đến một quốc gia rất đặc biệt, đó là Estonia. Họ đã chọn cách phát triển đi thẳng vào phát triển kiến thức, sau này là chuyển đổi số, và tiếp tục là kiến thức. Vậy làm sao để chúng ta đạt được thành quả như họ?

Trong quá trình tư vấn chính sách và nghiên cứu cách phát triển của Việt Nam, chúng tôi đã xem xét trường hợp của Estonia. Chúng ta cần liên hệ với đất nước mình để xem Việt Nam có năng lực hay không.

Tại sao chúng ta chiến đấu giỏi đến thế, kẻ thù nào cũng đánh thắng? Một điều phi thường, không có đất nước nào mà kẻ thù nào cũng thắng, dù chúng ta rất nghèo, chúng là nghèo từ thời Hùng Vương cho đến tận bây giờ. Tại sao lại như vậy?

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 2.

TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, một thành viên của Tổ tư vấn Chính sách của Chính phủ

Đến bây giờ, tôi tin rằng Việt Nam hoàn toàn có những năng lực và đang mở ra cơ hội để đạt được những điều lớn lao, thậm chí còn hơn thế.

Bởi vì năng lực của một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam, nghèo như vậy mà với khả năng chiến đấu như vậy thì rất đặc biệt, phi thường. Tuy nhiên, rõ ràng là hiện nay năng lực nội tại vẫn chưa được phát huy. Không phải chúng ta không có năng lực. Năng lực để xử lý những vấn đề khốc liệt nhất về số phận của dân tộc mình là Việt Nam có sẵn. Có sẵn nhưng chưa được khai thác. Vậy chúng ta thiếu gì?

Từ hồi thống nhất đất nước, tôi thấy có ba lần mà đất nước ta đã cố gắng làm sống dậy sự phát triển.

Lần thứ nhất là sau giải phóng miền Nam, chúng ta đã xác định ngay cách mạng khoa học kỹ thuật là điều cần thiết, ngay cả khi vừa trải qua chiến tranh, với biết bao khổ đau. Việc xác định đó là rất đúng đắn. Tuy nhiên, việc xác định là một chuyện, còn làm được hay không lại là chuyện khác. Chúng ta nhìn ra vấn đề nhưng chưa biết cách thực hiện. Vì thế, 20 năm sau mọi thứ vẫn như vậy.

Nhưng sau 20 năm sau, Việt Nam lại có một cơ hội khác. Đó là thời điểm bắt đầu mở cửa. Khi mở cửa, chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường. Lúc đó, thế giới cũng đang nói về kinh doanh tri thức, và Việt Nam đã nhanh chóng tiếp nhận khái niệm này.

Thực tế, nhìn lại 20 năm thì Việt Nam vẫn nghèo, chưa làm giàu được nhưng nay Việt Nam vẫn âm thầm nhận ra điểm nghẽn để giải quyết. Như ta biết điểm nghẽn của điểm nghẽn là thể chế. Ta mở ra kinh tế thị trường nhưng vẫn có điểm nghẽn, không phát huy được nội tại.

Và giờ cách đặt vấn đề là giải nghẽn, lần này là lần phát hiện ra kinh tế tư nhân là nguồn lực đích thực chứ không chỉ là nguồn lực chỉ được phép tồn tại, là lực lượng chủ lực phát triển, gắn với cách mạng khoa học công nghệ. Thời này là thời Việt Nam phải lớn mạnh thì mới xứng với tiềm lực của Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam có một khí thế, niềm tin để chúng ta giải quyết vấn đề. Quả thực không có lý do gì để Việt Nam không thể vượt lên, quan trọng là tạo ra những năng lực phù hợp với thời đại. Tóm lại, Việt Nam là nền kinh tế sáng tạo tạo ra một lực lượng, nặng lực mới cùng năng lực thể chế. Với kinh tế thị trường và kinh tế tri thức, tôi tin rằng Việt Nam chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ.

Vậy còn từ góc nhìn của một chuyên gia tư vấn trong nhiều dự án chuyển đổi số cho các tổ chức, doanh nghiệp ở Việt Nam, ông Hoàng Trung Hải nhận thấy cơ hội hiện thực hoá một triển vọng E-Vietnam ở các doanh nghiệp Việt Nam?

E-Việt Nam được hiểu là Chính phủ số, xã hội số, kinh tế số,…
Sự thay đổi cốt lõi này phải đến từ tầm quốc gia, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm cho các ứng dụng và dịch vụ.

Đối với người dân, họ mong muốn có một nơi tin cậy có thể sử dụng các dịch vụ một cách thuận tiện nhất.

Đối với Chính phủ, cái VNeID sẽ có một cơ sở dữ liệu đồng nhất, chuẩn xác, minh bạch để phục vụ công tác quản lý và chống được tiêu cực, tham nhũng.

Đối với ngân hàng, thứ nhất, họ sẽ có một nền tảng tin cậy để thực hiện các giao dịch, giúp giảm chi phí đầu tư. Thứ hai, đây là cơ hội để các ngân hàng tiếp cận những khách hàng mới, những người dân chưa có điều kiện sử dụng dịch vụ ngân hàng truyền thống. Thông qua các kênh ứng dụng này, ngân hàng có thể cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới, đặc biệt là các dịch vụ hỗ trợ thanh toán.

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 3.

Ông Hoàng Trung Hải, Phó Tổng Giám đốc, Tư vấn, Dịch vụ Tài chính Ngân hàng, Công ty Cổ phần Tư vấn EY Việt Nam.

Tôi xin lấy một câu chuyện gần đây về Nghị quyết 23 của Chính phủ, ban hành ngày 28/8/2025, về việc hỗ trợ người dân 100.000 đồng nhân dịp lễ Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Ngay sau khi có thông báo là liên kết tài khoản ngân hàng với VNeID để được nhận tiền, cá nhân tôi và rất nhiều người xung quanh đã nhận được tiền vào tài khoản rất nhanh chóng.

Điều này cho thấy, một ứng dụng là nền tảng cho vấn đề chuyển đổi số của quốc gia sẽ có sức lan tỏa mạnh mẽ, mang lại lợi ích không chỉ cho người dân, doanh nghiệp mà cho cả các cơ quan Chính phủ.

Nếu đánh giá về nắm bắt cơ hội vươn mình từ chuyển đổi số thì ngành ngân hàng nói chung và TPBank nói riêng là những ví dụ điển hình ở tốc độ cũng như kết quả tạo được. Xin hỏi ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank: ông nghĩ gì về triển vọng E-Vietnam giúp nền kinh tế Việt Nam vươn mình?

Tôi tin rằng E-Vietnam hoàn toàn có thể trở thành hiện thực, không phải trong một tương lai xa xôi, mà ngay trong thập kỷ này, mặc dù dân số chúng ta gấp 100 lần Estonia.

Thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến những thay đổi rất lớn của đất nước. Thậm chí có lúc doanh nghiệp chưa thay đổi nhanh bằng Chính phủ trong việc ngày càng tinh gọn bộ máy. Quyết tâm cải cách của Đảng và Chính phủ đã tạo nền tảng để quốc gia bứt phá.

Một minh chứng rõ rệt là VNeID. Đây là công cụ mang lại lợi ích rất lớn.

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 4.

Ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank

Lấy ví dụ từ chính chúng tôi. Trước đây, TPBank cũng đã có thể mở tài khoản trực tuyến cho khách hàng bằng eKYC. Tuy vậy, việc xác thực khách hàng còn nhiều lo ngại, có thể bị giả mạo danh tính hoặc sử dụng thông tin sai lệch.

Còn hiện nay kết nối với VNEID, cơ sở dữ liệu dân cư thì nay gần như toàn bộ hồ sơ khách hàng đều được xác thực tin cậy 100%. Điều này giúp ngân hàng yên tâm hơn, đồng thời góp phần giảm hẳn tình trạng lừa đảo vốn từng diễn ra nhiều năm qua.

Việt Nam hiện có hệ thống thanh toán nhanh, thậm chí vượt trội hơn nhiều nước châu Âu, nhưng đi kèm đó cũng là nguy cơ bị lợi dụng để lừa đảo. Chúng tôi từng phối hợp với Bộ Công an để truy quét dòng tiền lừa đảo, chỉ trong vài phút mà khoản tiền đó luân quyển qua hàng chục tài khoản.

Nhưng hiện nay, nhờ sự phối hợp với Bộ Công an, cùng công nghệ xác thực khuôn mặt gắn với dữ liệu dân cư, những thủ đoạn gian lận qua tài khoản cá nhân gần như không còn đất sống, và giờ đây hoạt động bất hợp pháp dần bị siết chặt ngay cả ở tài khoản doanh nghiệp.

Dữ liệu dân cư quốc gia không chỉ giúp quản lý xã hội hiệu quả hơn mà còn tiết kiệm nhiều nguồn lực khi triển khai trên nền tảng số. Với ngân hàng, dữ liệu này là tài sản cực kỳ quan trọng. Việc kết nối với VNeID cho phép chúng tôi nhúng nhiều dịch vụ ngân hàng trực tiếp lên nền tảng đó, từ mở tài khoản, xác thực giao dịch lớn, đến phát hành thẻ hay đề xuất khoản vay.

Tôi cho rằng, để E-Vietnam trở thành hiện thực, VNeID sẽ đóng vai trò then chốt. Ngay bản thân tôi khi ra sân bay cũng không cần dùng căn cước công dân bản cứng, chỉ cần VNeID là đủ. Khi hàng loạt tiện ích đời sống, tài chính và dịch vụ công được tích hợp trên VNeID, đó sẽ là nền móng vững chắc để thực hiện thành công E-Vietnam.

Trước khi trở thành một câu chuyện kinh điển về lội ngược dòng trong ngành ngân hàng, TPBank là một ngân hàng nhỏ, thuộc diện phải tái cơ cấu bắt buộc. Giờ khi đã trở thành một biểu tượng về chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, kinh doanh hiệu quả với khả năng phục vụ hàng chục triệu khách hàng, ông có thể chia sẻ cơ hội đến từ số hoá đã biến TPBank từ “small guy” trở thành một “big boy” như thế nào?

Năm 2011, TPBank là một trong 9 ngân hàng phải tái cơ cấu, đứng cuối bảng xếp hạng 42/42 ngân hàng thương mại Việt Nam. Từ vị trí đó, để có thể vươn lên nhóm 10–12 ngân hàng hàng đầu hiện nay, là một quá trình lâu dài và rất khó khăn. Nếu chỉ cạnh tranh theo cách truyền thống với những ngân hàng đã đi trước, chúng tôi khó có cơ hội, nhất là khi Nhà nước cũng hạn chế việc mở rộng mạng lưới chi nhánh vật lý.

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 5.

Chính vì vậy, ngay từ khi tái cơ cấu, chúng tôi đã xác định con đường duy nhất để mở rộng mạng lưới khách hàng mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian chính là kênh số. Đó là hướng đi mang tính chiến lược. Có thể nói, “trong cái khó ló cái khôn”, trong hoàn cảnh thách thức, chúng tôi lại chọn đúng xu thế.

Nhờ vậy, dù số lượng chi nhánh vật lý không nhiều, TPBank vẫn thu hút được lượng lớn khách hàng mở tài khoản. Chúng tôi tiên phong triển khai mô hình chi nhánh tự động 24/7 trên toàn quốc, được Ngân hàng Nhà nước cho phép thử nghiệm. Đến nay đã có khoảng 400–500 điểm giao dịch tự động, thay thế hiệu quả cho việc phải mở thêm chi nhánh truyền thống. Đây là bước ngoặt lớn, vừa tiết kiệm chi phí, vừa nâng cao trải nghiệm khách hàng.

Chúng tôi cũng xác định dữ liệu là yếu tố then chốt. Chúng tôi có dữ liệu ngân hàng sẵn có nhưng cần được kết nối thêm với các đơn vị khác để làm giàu thêm, mở ra cơ hội khai thác và phát triển sản phẩm dịch vụ mới.

Hiện tại, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) cũng giúp TPBank tối ưu nguồn lực, giảm đáng kể chi phí vận hành, đồng thời đẩy nhanh tiến độ triển khai sản phẩm dịch vụ. Nhờ vậy, chúng tôi có điều kiện tập trung nhiều hơn vào yếu tố con người và trải nghiệm khách hàng.

Xin được hỏi đánh giá của ông Hoàng Trung Hải về câu chuyện chuyển đổi số trong ngành tài chính ngân hàng. Vì sao các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói chung lại có thể tạo ra sự thay đổi nhanh chóng, rõ rệt về chuyển đổi số và tạo ra trải nghiệm về dịch vụ tốt hơn hẳn nhiều lĩnh vực khác?

Khi nói về chuyển đổi số, chúng tôi thường nhìn vào bốn khía cạnh chính: Nhìn nhận và góc nhìn của lãnh đạo, Phương pháp luận chuyển đổi số cho từng doanh nghiệp, Yếu tố con người và văn hóa doanh nghiệp, Chi phí đầu tư.

Trong lĩnh vực ngân hàng tài chính, công nghệ được xem là cốt lõi để dẫn dắt sự phát triển. Không chỉ 1 ngân hàng mà gần như toàn bộ ngành đều nhìn thấy chuyển đổi số là yếu tố sống còn để thúc đẩy phát triển, đổi mới sáng tạo và tăng trưởng bền vững trong môi trường cạnh tranh.

Lãnh đạo của các ngân hàng là người truyền tải và thổi hồn văn hóa chuyển đổi số vào toàn bộ tổ chức. Nhờ đó, việc này không chỉ là nhiệm vụ của một vài đơn vị công nghệ, mà tất cả các đơn vị kinh doanh, hỗ trợ, bán hàng đều tham gia vào quá trình này.

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 6.

Thứ ba là về phương pháp luận. Đối với mỗi doanh nghiệp, phương pháp luận chuyển đổi số sẽ khác nhau. Có thể học hỏi quốc tế nhưng sẽ phụ thuộc vào văn hóa và hiện trạng của doanh nghiệp để định hướng xem nên làm gì trước, làm gì sau; tập trung phục vụ cho tăng trưởng hay để tối ưu vận hành và nâng cao hiệu quả.

Thứ tư là chi phí. Chuyển đổi số luôn gắn liền với chi phí đầu tư rất lớn, và khoản đầu tư này thường không thể mang lại lợi nhuận ngay lập tức. Lãnh đạo các ngân hàng hiểu rằng dù đầu tư rất tốn kém, nhưng nó sẽ là nền tảng cho sự phát triển bền vững và tạo ra lợi thế cạnh tranh trong tương lai. Một điều may mắn là lĩnh vực tài chính - ngân hàng có nguồn lực tài chính dồi dào, hay nói thẳng là "có tiền". Điều này cho phép các lãnh đạo có thể đẩy mạnh đầu tư ngay từ giai đoạn đầu.

Tôi nhận thấy quá trình chuyển đổi số của ngành ngân hàng đã manh nha từ rất sớm. Nhiều ngân hàng tiên phong đã bắt đầu từ năm 2010-2011. Từ thời điểm đó, họ đã mạnh dạn đầu tư, và đến nay, có thể nói ngành ngân hàng đang là ngành tiên phong và thành công trong chuyển đổi số.

Tuy nhiên, tôi biết trong hội trường hôm nay có đại diện của nhiều doanh nghiệp đầu đàn ở các lĩnh vực khác và họ cũng đã rất thành công trong chuyển đổi số. Nhưng ngành ngân hàng có đặc thù là gần như cả ngành đã thành công và vẫn đang tiếp tục tiến lên.

Chúng tôi hay tư vấn cho các doanh nghiệp là đừng làm kế hoạch cho khoảng 3 - 5 năm sau đấy cập nhật lại, công nghệ thay đổi, yêu cầu của khách hàng thay đổi, mình cũng phải thay đổi và thị hiếu của khách hàng thay đổi.

Thế thì cứ khoảng 2- 3 năm thì phải nhìn nhận lại và sắp xếp lại câu chuyện chuyển đổi số, câu chuyện chuyển đổi số xảy ra liên tục không có khái niệm dừng.

Bây giờ chúng ta xin trở lại với câu chuyện hạ tầng số của nền kinh tế với ứng dụng VneID và một câu chuyện đang rất thời sự hiện nay: liên kết với tài khoản ngân hàng để nhận 100.000 đồng quà tặng từ Chính phủ nhân dịp 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2/9. Các vị diễn giả có đánh giá như thế nào về sáng kiến này?

PGS. TS Trần Đình Thiên: Với câu chuyện này, có khía cạnh rằng người dân Việt Nam rất sẵn sàng chấp nhận các tiêu chuẩn quốc tế một cách tự nhiên. Sự kiện vừa rồi tôi cho rằng là một phép thử cho khía cạnh này, và người dân đã cho thấy sự nhận thức về kinh tế số, chuyển đổi số. Đây là một bài học rất quan trọng.

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 7.

Điểm thứ hai là để bảo đảm hiệu quả và không gây ra những điều đáng tiếc, chúng ta cần phải chuẩn bị những điều kiện tối thiểu cần thiết. Chúng ta từng nghĩ rằng sẽ không có vấn đề gì, nhưng thực tế lại không phải vậy. Bài học rút ra là việc chuẩn bị điều kiện cho một sự kiện quan trọng như mùng 2/9 vừa rồi là vô cùng cần thiết.

Tôi nghĩ bài học này rất hay. Ví dụ như Facebook, với hàng trăm triệu người dùng, có thể xử lý lượng truy cập lớn mà không gặp sự cố, không tắc nghẽn tý nào. Điều này cho thấy chúng ta cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt hạ tầng. Nếu không, các vấn đề nhỏ có thể bị khuếch đại và gây ra hậu quả không lường được. Đây là một bài học rất giá trị cho chúng ta.

Tôi muốn bình luận thêm về lĩnh vực ngân hàng, tại sao chúng ta chưa đạt được mức độ mong muốn. Có những lý do liên quan đến quá trình phát triển. Tuy nhiên, thị trường tài chính, tiền tệ và chứng khoán là vô cùng quan trọng. Càng hiện đại, càng có nhiều người tin cậy và nhu cầu sử dụng càng cao. Chính vì nhu cầu này, chúng ta cần phải biết cách để tổ chức và lan tỏa hệ thống tài chính một cách hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trọng đối với một nước đang phát triển như chúng ta. Nếu không làm đúng, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn.

Đây là những bài học quan trọng mà chúng ta cần phải tổng kết và học hỏi. Nếu không, chúng ta sẽ đối mặt với những vấn đề lớn. Những bài học này giúp chúng ta nhanh chóng thoát khỏi tình trạng yếu kém, vươn lên và đạt được sự phát triển tốt nhất. Càng thực hiện tốt, chúng ta càng đạt được thành công.

Quốc gia dân số chỉ bằng 1,3% Việt Nam có GDP tăng hơn 10 lần sau 23 năm: Việt Nam có thể làm được như vậy không?- Ảnh 8.

Cùng với chương trình tặng quà cho mọi người dân nhân dịp 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2/9, TPBank nằm trong số những ngân hàng tiên phong đưa ra các chương trình đồng hành với người dân và Chính phủ, với việc tặng thêm 100.000 đồng cho người dân liên kết thành công tài khoản an sinh xã hội trên ứng dụng VneID với tài khoản TPBank bên cạnh quà tặng 100.000 đồng của Chính phủ. Chương trình này áp dụng cho cả khách hàng cũ lẫn khách hàng mời của TPBank. Ông Nguyễn Hưng có thể cho biết đằng sau chương trình đồng hành này là gì?

Ông Nguyễn Hưng: Chúng tôi không có ý định kinh doanh gì trong chương trình này. Nhân dịp Quốc khánh, ngân hàng chỉ muốn gửi thêm một phần quà nhỏ tới khách hàng. Thực tế, chúng tôi ghi nhận số lượng khách hàng đăng ký khá nhiều, nhưng số chuyển tiền thanh toán không nhiều, có thể do người dân đã nhận tiền tại địa phương.

Trước đây số người dân sở hữu tài khoản ngân hàng còn ít, nhưng hiện tại thì 86% dân số có tài khoản nên rất thuận tiện.
Thực tế, không nước nào như nước mình khi toàn bộ giao dịch thanh toán là miễn phí hết. Ở châu âu và châu mỹ thì phí khá “chát”. Đây là nỗ lực lớn của toàn ngành ngân hàng: duy trì một hệ thống thanh toán khổng lồ, miễn phí cho người dân, dù không thu lợi trực tiếp từ hoạt động này.

Vì số lượng khách hàng, giao dịch ngày càng lớn, chúng tôi phải tính toán kỹ lưỡng về băng thông và hạ tầng công nghệ, nhằm đáp ứng lượng khách hàng cao nhất mà vẫn tránh tình trạng nghẽn mạng, bởi chỉ cần gián đoạn dịch vụ cũng có thể khiến khách hàng rời bỏ. Đặc biệt trong các ngày nghỉ lễ vừa qua, dù lượng truy cập tăng, hệ thống vẫn vận hành mượt mà, không bị ảnh hưởng. Đây thực sự là một phép thử quan trọng cho toàn hệ thống.

Xin được hỏi TS Trần Đình Thiên: theo ông, từ góc độ chính sách, việc thúc đẩy chuyển đổi số thông qua các nhu cầu cụ thể, có thực của người dân, doanh nghiệp như với ứng dụng VneID sẽ có tác động như thế nào trong việc hình thành E-Vietnam?

Điều này tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu thực sự. Khi có nhu cầu, chúng ta nên hỗ trợ; việc áp đặt đôi khi không mang lại ý nghĩa kinh tế. Thay vào đó, chúng ta nên tạo cho người dân nhu cầu tiếp cận các nền tảng số để giải quyết vấn đề của họ. Về nguyên tắc, bất cứ ứng dụng hay việc làm nào cũng sẽ thúc đẩy quá trình số hóa đất nước theo cả ba tuyến: kinh tế số, xã hội số và công dân số.

Tuy nhiên, để thực hiện việc này, chúng ta phải nhớ rằng một bước chuyển sang một hệ thống hoàn toàn mới chắc chắn đi kèm với rất nhiều rủi ro. Rủi ro không chỉ là sai sót kỹ thuật mà còn theo nhiều cách khác, với biên độ rủi ro cực kỳ lớn. Để đảm bảo người dân có thể tiếp cận an toàn, một yếu tố quan trọng khác là phải chống và tránh được rủi ro cho xã hội.

Tôi nghĩ rằng việc này thuộc về nhà nước và chính sách, thông qua việc trang bị tri thức cần thiết cho người dân để họ tránh được những rủi ro này. Đây là câu chuyện mà tôi nghĩ rằng công nghệ càng cao, càng tiên tiến, càng nhanh thì càng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Cùng với đó, phải tạo cơ hội tiếp cận một cách công khai, minh bạch, đa dạng và kết nối tốt hơn. Nếu không, chúng ta sẽ thấy rằng mọi quyết định cơ bản hiện nay đều dựa trên dữ liệu và cơ sở dữ liệu. Dữ liệu phải được liên thông, thông suốt và bảo đảm trên một hệ thống thống nhất toàn quốc, thậm chí toàn cầu.

Việc này không chỉ xuất phát từ nhu cầu sẵn có mà còn cần kích thích và tạo ra nhu cầu bằng cách cung cấp cho người dân tri thức và dữ liệu. Tôi nghĩ đây là một điểm mà Việt Nam đang làm khá tốt, tôi thấy nhà nước hiện nay đang tập trung rất nhiều vào việc xây dựng kho dữ liệu và kết nối. Đồng thời, an toàn mạng cũng là một việc làm cần thiết. Cùng với đó, nhu cầu sẽ tăng cường theo số nhân, không phải tuyến tính. Như vậy, chúng ta sẽ có những bước tiến vượt bậc trong quá trình số hóa đất nước.

Nếu đưa ra một lời khuyên về chuyển đổi số mà các diễn giả muốn chia sẻ nhất, điều đó sẽ là gì?

Ông Hoàng Trung Hải: Về vấn đề chuyển đổi số, đối với lời khuyên của cá nhân tôi: “Phải thực hiện và thực hiện ngay”

Ông Nguyễn Hưng: Suy cho cùng, nhu cầu của người dân là yếu tố then chốt quyết định thành công của chuyển đổi số. Nếu làm nửa vời khiến công việc gấp đôi, thì chắc chắn sẽ thất bại.

Nhìn vào sự kiện vừa qua, việc người dân hưởng ứng các chương trình an sinh xã hội, đơn giản vì trong đó có khoản hỗ trợ cụ thể, ví dụ 100.000 đồng, và quan trọng hơn là có cơ sở dữ liệu để xác định minh bạch, chính xác.

Những nhu cầu nhỏ, thiết thực hàng ngày khi được đáp ứng qua kênh số sẽ dần hình thành thói quen sử dụng.

Ngày nay, cả người già lẫn trẻ nhỏ đều đã thành thạo với điện thoại thông minh. Do đó, điều quan trọng là phải triển khai các dịch vụ số sao cho dễ dùng, phục vụ đúng nhu cầu, thì hiệu quả mang lại sẽ rất lớn. Khi Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức cùng đi theo hướng này, chắc chắn sẽ đáp ứng được kỳ vọng của người dân.

Thực tế tại TPBank chúng tôi, hiện có tới 98% giao dịch đã được thực hiện trên kênh số, bởi sự tiện lợi. Bây giờ chuyển tiền chỉ mất mấy giây, thì việc gì khách hàng phải mang tiền mặt đi giao dịch.
Chính những lợi ích thiết thực này sẽ giúp chuyển đổi số thành công, và đó cũng là tiền đề quan trọng để triển khai E-Vietnam.

PGS. TS Trần Đình Thiên: Tôi nghĩ rằng chúng ta đang có một cuộc cách mạng kinh khủng, từ phương thức vật thể sang phương thức số. Để mà thực hiện được mục tiêu này, tôi nghĩ rằng điều tôi muốn cụ thể hơn, ý của tôi chính là nhà nước phải đóng vai trò bà đỡ. Bà đỡ theo ý nghĩa là tạo ra những điều kiện cho cuộc chơi và người bảo vệ cuộc chơi đó cho những người mới tham dự.

Bà đỡ theo ý nghĩa đó thì đầu tiên, tôi có thể nói rằng ví dụ là nhà nước là người dẫn dắt, đặt hàng các doanh nghiệp trong những dự án về số, trong những cuộc chơi về số, trong những đề án liên quan đến số. Và như vậy, cái chi phí hay là lợi ích mang lại của doanh nghiệp sẽ là cái động lực để họ tiếp tục phát triển.

Cùng với đó, nhà nước biết cách tạo nhu cầu thì cái nhu cầu và tạo ra sự đảm bảo nhất định cho doanh nghiệp. Nếu không, lòng tin mà mất đi thì quả thực là sự chậm nhịp trong khi những thế lực cản trở lại rất mạnh.

Trong thế giới mạng, thế giới số toàn cầu, trong bối cảnh có nhiều thứ không thân thiện với Việt Nam mà Việt Nam muốn đi nhanh, thì những cuộc đấu ấy cần phải có một sự bảo vệ theo ý nghĩa quốc gia, cho mỗi người dân tham gia vào.